Báo cáo chỉ số thương mại điện tử Việt Nam năm 2019: 'Tăng trưởng toàn diện đạt trên 30%'

Tiếp tục trên đà tăng trưởng mạnh

Được VECOM xây dựng từ năm 2012, sau 8 năm liên tiếp, báo cáo thương mại điện tử (E-business Index - EBI) là nguồn thông tin hữu ích cho các cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động thương mại điện tử trên phạm vi cả nước, ở các cấp từ Trung ương, địa phương, đến đông đảo các tổ chức và doanh nghiệp, đồng thời cũng gợi mở nhiều hoạt động nhằm thúc đẩy phát triển thương mại điện tử và kinh tế số ở Việt Nam trong thời gian tới.

Năm 2018 thương mại điện tử Việt Nam tiếp tục phát triển toàn diện với tốc độ tăng trưởng trên 30%. Tuy chỉ có xuất phát điểm là ~4 tỷ USD vào năm 2015 nhưng nhờ tốc độ tăng trưởng trung bình trong ba năm liên tiếp cao nên quy mô thị trường thương mại điện tử năm 2018 lên tới khoảng 7,8 tỷ USD. Thị trường này bao gồm bán.

lẻ trực tuyến, du lịch trực tuyến, tiếp thị trực tuyến, giải trí trực tuyến và mua bán trực tuyến các dịch vụ và sản phẩm số hoá khác.. Ông Nguyễn Kỳ Minh - Ủy viên Ban Chấp hành VECOM nhận định: ”Với sự tăng trưởng cao và liên tục, chúng ta tin tưởng sẽ đạt được mục tiêu 10 tỷ USD loại hình doanh nghiệp với người tiêu dùng vào năm 2020″.

Theo Báo cáo eConomy SEA 2018 của Google và Temasek, quy mô thị trường thương mại điện tử Việt Nam năm 2018 là 9 tỷ USD. Báo cáo cũng dự báo tốc độ tăng trưởng trung bình năm (Compound Average Growth Rate – CAGR) của giai đoạn 2015 – 2018 là 25% và thị trường đạt 33 tỷ USD vào năm 2025. Nếu kịch bản này xảy ra, quy mô thị trường thương mại điện tử Việt Nam năm 2025 đứng thứ ba ở Đông Nam Á, sau Indonesia (100 tỷ USD) và Thái Lan (43 tỷ USD).

Năm vừa qua cũng đánh dấu sự tăng trưởng tốt của mô hình kinh doanh trên các mạng xã hội, có thể thấy đây là hình thức hiệu quả với chi phí thấp đang được nhiều doanh nghiệp lựa chọn mà điển hình là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ kinh doanh và cá nhân. Trong số các doanh nghiệp tham gia khảo sát thì có 36% doanh nghiệp cho biết có bán hàng trên mạng xã hội (tăng 4% so với năm 2017). Đồng thời, tỷ lệ doanh nghiệp đánh giá bán hàng qua mạng xã hội đạt hiệu quả cao là 45% (tăng nhiều so với tỷ lệ 39% năm 2017), trong khi tỷ lệ này đối với bán hàng qua website là 32%và qua ứng dụng di động là 22%. Nhiều doanh nghiệp lớn cũng đã tích cực sử dụng mạng xã hội để tiếp thị và chăm sóc khách hàng. Chẳng hạn, Lazada là sàn thương mại điện tử hàng đầu ở Việt Nam có trên 50.000 nhà bán hàng và đối tác. Hàng tháng, sàn này thu hút trên 100 triệu lượt người truy cập, tới tháng 10 năm 2018 có 27 triệu người theo dõi (followers) trên trang Facebook của công ty.

Vẫn gặp nhiều khó khăn

Tuy nhiên, Báo cáo chỉ số TMĐT Việt Nam 2019 cũng cho thấy vẫn còn nhiều cản trở cho sự bứt phá trong giai đoạn tới. Đơn cử như dịch vụ logistics – giao hàng chặng cuối – hoàn tất đơn hàng còn nhiều hạn chế, . Dù có đến 70% trở lên người mua hàng trực tuyến sử dụng hình thức thanh toán dịch vụ thu hộ người bán (COD) nhưng tỷ lệ người mua hoàn trả sản phẩm đã đặt hàng trực tuyến cao. Ước tính tỷ lệ trung bình tổng giá trị của các sản phẩm hoàn trả so với tổng giá trị đơn hàng lên tới 13%. Có doanh nghiệp phải chịu tỷ lệ này ở mức 26%.

Thêm vào đó, lòng tin của người tiêu dùng vào giao dịch mua bán trực tuyến còn thấp. Kết quả khảo sát cho thấy dưới 50% người được hỏi nói rằng mình hài lòng với phương thức mua hàng trực tuyến, tức là vẫn còn một tỷ lệ lớn đối tượng khách hàng tiềm năng mà các nhà cung cấp dịch vụ thương mại điện tử phải chinh phục. Nguyên nhân lớn nhất ảnh hưởng đến tâm lý người dùng vẫn là chất lượng hàng hóa. Báo cáo của Cục TMĐT&CNTT nói rằng có đến hơn 70% người được khảo sát quan ngại sản phẩm kém chất lượng so với quảng cáo. Và còn nhiều lý do khác như: Giá cả không rẻ hơn khi mua ngoài cửa hàng trong khi đã được khuyến mãi; thông tin cá nhân bị rò rỉ; mua hàng ở cửa hàng dễ và nhanh gọn hơn; người tiêu dùng chưa có thẻ ngân hàng để thanh toán; cách thức mua hàng qua mạng vẫn phức tạp với nhiều người…

Chính sách pháp luật thiếu tính đồng bộ là một nguyên nhân quan trọng cho các trở ngại này. Bảo vệ thông tin cá nhân có tầm quan trọng đặc biệt đối với thương mại điện tử. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã có các quy định về bảo vệ thông tin cá nhân như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật Công nghệ thông tin, Luật An toàn thông tin mạng, Nghị định về Thương mại điện tử, Nghị định Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện. Tuy nhiên, tình trạng thu thập, sử dụng, phát tán, kinh doanh trái pháp luật thông tin cá nhân vẫn diễn ra phổ biến. Rõ ràng, nguy cơ bị thu thập, sử dụng, phát tán, kinh doanh trái pháp luật thông tin cá nhân là một trong những nguyên nhân làm suy giảm lòng tin của người tiêu dùng với thương mại điện tử. Người tiêu dùng đang chờ đợi những tín hiệu tích cực từ việc thực thi Luật An ninh mạng đối với các vấn đề nhức nhối này.

Ngoài ra, đối với các sàn thương mại điện tử, việc pháp luật không chấp nhận hình thức thanh toán rút gọn với các dữ liệu điện tử thay vì chứng từ giấy đã tạo ra nhiều trở ngại cho sự phát triển thương mại điện tử xuyên biên giới,đồng thời tạo nên sự thiếu minh bạch trong quá trình thanh toán. Các đơn vị quản lý sàn phải đối mặt với khó khăn mua ngoại tệ và thanh toán lại cho nhà bán hàng xuyên biên giới. Việc này gần như bất khả thi vì theo quy định tại Pháp lệnh Ngoại hối năm 2005 và Nghị định 70/2014/NĐ-CP, sàn thương mại điện tử cần xuất trình nhiều loại giấy tờ mới được mua ngoại tệ chuyển ra nước ngoài: 1) Lệnh chuyển tiền; 2) Văn bản yêu cầu mua ngoại tệ; 3) Hợp đồng ngoại thương; 4) Tờ khai hải quan hàng nhập khẩu; 5) Hóa đơn. Ngoài ra, do sàn thương mại điện tử không phải là người nhận hàng nhập khẩu nên còn cần bổ sung thêm: 1) Xác nhận đã nhận hàng của người tiêu dùng; 2) Giấy ủy quyền của người tiêu dùng. Còn đối với người tiêu dùng, họ không được tiếp cận những sản phẩm tương xứng với giá tiền và quyền được trả hàng khi hàng hóa không đúng như quảng cáo. Việc chỉ cho phép ngân hàng chấp nhận chứng từ giấy theo kiểu truyền thống trong thanh toán quốc tế và không có kết nối dữ liệu là không phù hợp với quá trình hiện đại hóa và tự động hóa trong dịch vụ ngân hàng, không đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng.

Khoảng cách giữa các địa phương về chỉ số TMĐT tăng

Bị ảnh hưởng sâu sắc về tính toàn cầu, nhanh chóng và hiệu quả của Internet nên cho tới nay các chính sách thương mại điện tử của Việt Nam ít chú ý tới yếu tố địa kinh tế và thu hẹp khoảng cách số giữa các vùng.Báo cáo Chỉ số Thương mại điện tử nhiều năm liên tiếp cho thấy phần lớn hoạt động thương mại điện tử diễn ra ở hai thành phố lớn nhất nước là Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh và một số tỉnh năng động liền kề như Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Đồng Nai, Bình Dương và các thành phố lớn trực thuộc Trung ương là Hải Phòng, Đà Nẵng và Cần Thơ. Hoạt động kinh doanh trực tuyến tại hầu hết các tỉnh khác còn yếu và có nguy cơ ngày càng tụt lại so với hai thành phố dẫn đầu.

Theo Ước tính Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh chiếm tới 70% giao dịch thương mại điện tử. Quy mô thương mại điện tử ở các địa phương khác, đặc biệt ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa rất nhỏ. Trong khi đó, khoảng 70% dân số sống ở nông thôn. Khu vực nông thôn có tiềm năng tiêu thụ lớn, đồng thời cũng là nơi cung cấp sản phẩm đa dạng phù hợp với bán hàng trực tuyến.

Chỉ số Thương mại điện tử được tổng hợp từ bốn nhóm chỉ số làm trụ cột với các trọng số khác nhau được chỉnh sửa cho phù hợp với từng trọng tâm trong các năm. Trọng số điểm cho bốn chỉ số thành phần năm nay lần lượt là:

  • Hạ tầng nguồn nhân lực và Công nghệ thông tin [NLL&HT] ( 20% số điểm): Được xây dựng dựa trên nhóm các chỉ số thành phần bao gồm: khả năng đáp ứng nguồn nhân lực phù hợp trong lĩnh vực thương mại điện tử; tính thuận tiện trong quá trình tuyển dụng nhân sự cũng như cơ cấu trong việc đầu tư nhân sự lĩnh vực thương mại điện tử ra sao; mức độ lao động thường xuyên sử dụng email hay các công cụ hỗ trợ khác trong công việc.
  • Giao dịch giữa chính phủ với doanh nghiệp [G2B] (10% số điểm): G2B phản ánh tính minh bạch thông tin của các địa phương đối với doanh nghiệp cũng như mức độ hoàn thiện của các dịch vụ công trực tuyến như thủ tục khai báo thuế, đăng ký kinh doanh, cấp giấy chứng nhận…
  • Giao dịch giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp [B2B] ( 35% số điểm): B2B phản ánh mức độ năng động của doanh nghiệp trong các hoạt động điều hành hệ thống nội bộ cũng
    như quá trình kết nối làm việc với đối tác và khách hàng.
  • Giao dịch trực tuyến giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng [B2C] ( 35% số điểm): Chỉ số B2C đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình phát triển của thương mại điện tử, nó phản ánh sát nhất với những thay đổi từ các hành vi, thói quen và nhận thức người tiêu dùng trong thời đại công nghệ số.

 

Sau đây là số liệu chỉ số thương mại điện tử của các thành phố lớn trong cả nước:

  • Năm 2019 chỉ số Thương mại điện tử của Tp.Hồ Chí Minh là: NLL&HT: 86.8; G2B: 84.2; B2B: 87.3; B2C: 87.2. Tp. Hồ Chí Minh tiếp tục dẫn đầu với điểm tổng hợp là 86,8 điểm và tăng 4,7 điểm so với năm 2018. Đặc biệt điểm số này cao hơn rất nhiều so với điểm số trung bình của Chỉ số Thương mại điện tử trong cả nước (40,3 điểm) và cao hơn tới gần 60 điểm so với địa phương có điểm xếp hạng thấp nhất là Bắc Kạn (27,4 điểm). Biểu đồ cũng cho thấy khoảng cách rất lớn giữa hai chỉ số thành phần là NNL&HT và giao dịch B2B của Tp. Hồ Chí Minh so với điểm số trung bình trong cả nước.
  • Đứng thứ hai là Hà Nội với các chỉ số lần lượt là: NLL&HT: 88.4; G2B: 77.7; B2B: 82.5; B2C: 85.8. Điểm tổng hợp là 84,3 điểm và cao hơn 4,5 điểm so với năm trước.
  • Hải Phòng vươn lên vị trí thứ 3 về Chỉ số Thương mại điện tử với các chỉ số: NLL&HT: 45.1; G2B: 75.5; B2B: 50.4; B2C: 72.5. Tổng điểm số là 59,6 điểm và tăng 4,7 điểm so với năm trước. Tuy nhiên mức độ chênh lệch giữa các điểm chỉ số thành phần của Hải Phòng với các điểm trung bình không cao như Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh
  • Và ở vị trí thứ 4 là Đà Nẵng với các chỉ số: NLL&HT: 44.8; G2B: 74.1; B2B: 52.4; B2C: 65.0. Tổng điểm là 57,5 điểm và tăng 3,4 điểm so với năm ngoái.

Nhìn chung top 4 tỉnh thành xếp đầu bảng năm 2019 vẫn tiếp tục duy trì không có sự thay đổi nào.Tuy nhiên mặc dù là top 4 tỉnh thành xếp đầu nhưng khoảng cách giữa Tp. Hồ Chí Minh và Hà Nội với 3 tỉnh thành còn lại cũng rất lớn, điển hình là khoảng cách giữa Hà Nội (xếp thứ 2) với Hải Phòng (xếp thứ 3) lên tới 24,7 điểm. Năm 2018 vừa qua nền Thương mại điện tử Việt Nam có nhiều sự phát triển về quy mô thị trường, tốc độ tăng trưởng, đầu tư… Nhưng những sự phát triển này vẫn đa số nằm ở nhóm địa phương phát triển như các thành phố trung tâm và điển hình là Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh. Thu hẹp khoảng cách số giữa các địa phương tiếp tục là một thử thách lớn trong thời gian tới.

Giải pháp lâu dài

Hiểu được tầm quan trọng của sự phát triển lĩnh vực thương mại điện tử, chương trình phát triển Thương mại điện tử Quốc gia cũng tiếp tục tập trung thực hiện: Nghiên cứu và xây dựng mô hình thanh toán TMĐT; xây dựng giải pháp bán hàng trực tuyến; xây dựng hệ thống giám sát và quản lý hoạt động Thương mại điện tử trên môi trường trực tuyến; xây dựng giải pháp đào tạo trực tuyến về thương mại điện tử; nghiên cứu giải pháp thẻ thanh toán… nhằm hỗ trợ doanh nghiệp các địa phương tận dụng tối đa những lợi ích mà TMĐT đem lại trong việc quảng bá sản phẩm, định vị thương hiệu, kết nối khách hàng và tìm kiếm thị trường để mở rộng mạng lưới kinh doanh.

Đại diện Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số (Bộ Công Thương) cho rằng, trong thời gian tới, cơ quan quản lý nhà nước sẽ tăng cường hỗ trợ các địa phương có chỉ số thương mại điện tử thấp. Hiện Cục đã tập trung xây dựng các kế hoạch tổng thể giai đoạn 2016-2020 với nhiều nhóm giải pháp hỗ trợ các địa phương như: Đào tạo nâng lực quản lý nhà nước về Thương mại điện tử, nâng cao năng lực ứng dụng Thương mại điện tử… để giúp các địa phương nâng cao thứ hạng của mình trong tương lai.

Từ cuối tháng 10 năm 2018 Bộ Công an đã công bố Dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều trong Luật An ninh mạng.14 Ngay sau đó, Cục An ninh mạng và Phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao đã phối hợp với Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số, Hiệp hội Thương mại điện tử (VECOM) tổ chức Tọa đàm góp ý cho dự thảo. Các doanh nghiệp kinh doanh trực tuyến tham gia Tọa đàm đánh giá cách diễn đạt của một số điều khoản trong dự thảo Nghị định còn chưa rõ ràng, dễ gây hiểu nhầm. Tuy nhiên, các quy định trong dự thảo không gia tăng đáng kể chi phí hoạt động của các doanh nghiệp thương mại điện tử. Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01 tháng 01 năm 2019 của Chính phủ giao Bộ Công an trình Dự thảo Nghị định này trong tháng 3 năm 2019. Các hội viên của Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (VECOM) sẽ tiếp tục phối hợp với các cơ quan, tổ chức và cộng đồng doanh nghiệp hướng tới mục tiêu giữ vững an ninh quốc gia trên môi trường mạng, đồng thời tạo môi trường thuận lợi cho việc kinh doanh trực tuyến.

Tổng hợp từ “báo cáo chỉ số thương mại điện tử năm 2019” của Vecom